Án treo thể hiện tính nhân đạo của pháp luật Việt Nam, có tác dụng nhằm khuyến khích và tạo điều kiện cho người bị kết án hoàn lương và tu dưỡng tại cộng đồng với sự giúp đỡ của gia đình và xã hội. Tuy nhiên, có những trường hợp Toà án không cho hưởng án treo. Vậy theo quy định mới nhất năm 2023, những trường hợp nào không được hưởng án treo?
Theo quy định của pháp luật, án treo là chế định pháp lý hình sự liên quan đến việc chấp hành hình phạt. Án treo được hiểu là việc tạm thời miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, hình phạt đối với người vi phạm luật ở mức độ ít nghiêm trọng, khi bị xử phạt tù không quá ba năm, có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ (từ 2 tình tiết trở lên), và xét thấy không cần phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội mà vẫn có thể cải tạo được thì Toà án có thể miễn chấp hành tại trại giam mà có thể tự cải tạo dưới sự giám sát, quản lý và giáo dục tại địa phương cư trú của chính quyền sở tại.
1. Điều kiện để được hưởng án treo?
Theo quy định tại Điều 2 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, được sửa đổi, bổ sung tại Nghị quyết 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 hướng dẫn Áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo. Cụ thể, người bị xử phạt tù có thể được xem xét hưởng án treo khi có đủ các điều kiện như sau:
Thứ nhất, bị xử phạt tù không quá 03 năm.
Thứ hai, người bị xử phạt tù có nhân thân là ngoài lần phạm tội này, người phạm tội chấp hành chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, nơi làm việc.
– Đối với người đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích, người bị kết án nhưng đã được xoá án tích, người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật mà tính đến ngày phạm tội lần này đã quá thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật mà tính đến ngày phạm tội lần này đã quá thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật theo quy định của pháp luật nếu xét thấy tính chất, mức độ của tội phạm mới được thực hiện thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội là đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án và có đủ điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo;
– Đối với người bị kết án mà khi định tội đã sử dụng tình tiết “đã bị xử lý kỷ luật” hoặc “đã bị xử phạt vi phạm hành chính” hoặc “đã bị kết án” và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo;
– Đối với người bị kết án mà vụ án được tách ra để giải quyết trong các giai đoạn khác nhau (tách thành nhiều vụ án) và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo;
– Đối với người bị kết án mà vụ án được tách ra để giải quyết trong các giai đoạn khác nhau (tách thành nhiều vụ án) và có đủ điều kiện khác thì cũng có thể hưởng án treo.
Thứ ba, có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
Thứ tư, có nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi làm việc ổn định để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát, giáo dục.
Nơi cư trú rõ ràng là nơi tạm trú hoặc thường trú có địa chỉ được xác định cụ thể theo quy định của Luật Cư trú mà người được hưởng án treo về cư trú, sinh sống thường xuyên sau khi được hưởng án treo.
Nơi làm việc ổn định là nơi người phạm tội làm việc có thời hạn từ 01 năm trở lên theo hợp đồng lao động hoặc theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
Thứ năm, xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt nếu người phạm tội có khả năng tự cải tạo và việc cho họ hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội.
2. Các trường hợp không cho hưởng án treo theo quy định mới nhất năm 2023:
Thứ nhất, người phạm tội là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tính chất chuyên nghiệp, lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
Người chủ mưu là người đề xướng chủ trương, phương hướng cho hoạt động của nhóm đồng phạm, họ có thể điều khiển hoạt động của nhóm tội phạm trực tiếp hoặc gián tiếp.
Người cầm đầu là người thành lập nhóm đồng phạm hoặc tham gia vào việc soạn thảo kế hoạch, phân công nhiệm vụ và đôn đốc, điều khiển hoạt động của nhóm đồng phạm.
Người chỉ huy là người điều khiển trực tiếp của nhóm tội phạm có vũ trang hoặc bán vũ trang.
Người phạm tội ngoan cố chống đối, côn đồ. dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tính chất chuyên nghiệp, lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng đều là những trường hợp được quy định là một trong các tình tiết tăng nặng tại Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự
Thứ hai, người thực hiện hành vi phạm tội bỏ trốn và đã bị các cơ quan tiến hành tố tụng truy nã hoặc yêu cầu truy nã, trừ trường hợp đã ra đầu thú trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Đây là trường hợp, người phạm tội vì sợ phải chịu hình phạt của Nhà nước về hành vi phạm tội của mình nên mới bỏ trốn, người phạm tội không hề biết ăn năn cũng không có thái độ nhận lỗi. Án treo là một biện pháp khoan hồng của nhà nước, án treo chỉ áp dụng với người có ý thức hối cải, biết nhận lỗi và sửa lỗi sai lầm của mình. Do đó trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội bỏ trốn và đã bị các cơ quan tiến hành tố tụng đề nghị truy nã không thể được hưởng án treo
(Trước đây quy định: Người thực hiện hành vi phạm tội bỏ trốn và đã bị các cơ quan tiến hành tố tụng đề nghị truy nã)
Thứ ba, người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách; người đang được hưởng án treo bị xét xử về một tội phạm khác thực hiện trước khi được hưởng án treo.
Thời gian thử thách là khoảng thời gian để pháp luật nhìn nhận xem người đó đã thật sự nhận ra lỗi lầm của mình và sửa chữa nó, trở thành công dân tốt hay chưa. Trong thời gian thử thách, người đó lại phạm tội mới chứng tỏ mức án treo quá nhẹ, không đủ để răn đe hay giáo dục người phạm tội.
Người đang được hưởng án treo bị xét xử về một tội phạm khác thực hiện trước khi được hưởng án treo. Án treo là biện pháp khoan hồng của Nhà nước dành cho người phạm tội, theo quan niệm từ xa xưa, phạm lỗi lần đầu có thể do con người chưa nhận thức đúng đắn, còn non dại, dễ tha thứ nhưng nếu tội sau đó thì không còn dễ tha thứ như tội đầu tiên. Do đó, một người đã được hưởng án treo về một tội rồi mà thực hiện tội phạm khác kể cả trước khi được hưởng án treo cũng không được hưởng án treo lần nữa.
Thứ tư, người phạm tội bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội, trừ một trong các trường hợp sau đây:
Người phạm tội là người dưới 18 tuổi
Người phạm tội bị xét xử và kết án về 02 tội đều là tội phạm ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội là người giúp sức trong vụ án đồng phạm với vai trò không đáng kể.
(Trước đây quy định: Người phạm tội bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội, trừ trường hợp người phạm tội là người dưới 18 tuổi)
Thứ năm, người phạm tội 02 lần trở lên, trừ một trong các trường hợp sau:
Người phạm tội là người dưới 18 tuổi;
Các lần phạm tội đều là tội phạm ít nghiêm trọng;
Các lần phạm tội, người phạm tội là người giúp sức trong vụ án đồng phạm với vai trò không đáng kể;
Các lần phạm tội do người phạm tội tự thú.
(Trước đây quy định: Người phạm tội nhiều lần, trừ trường hợp người phạm tội là người dưới 18 tuổi)
Thứ sáu, người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm.
Theo “Điều 53. Tái phạm, tái phạm nguy hiểm
1. Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xoá án tích mà mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.
2. Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
a) Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
b) Đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý”